Còn âm vang mãi những áng hùng văn thiên cổ

Dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, người Việt Nam nào cũng đều thấy tự hào về truyền thống vẻ vang chống ngoại xâm của ông cha, trong lòng mỗi chúng ta lại vang ngân những áng hùng văn thiên cổ đánh dấu những mốc son trong lịch sử dân tộc.

Với truyền thống hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã từng được chứng kiến sự ra đời của nhiều áng hùng văn thiên cổ - những bản tuyên ngôn độc lập của các thời kỳ khác nhau. Trong đó có ba bản tuyên ngôn tiêu biểu, khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập, tự chủ của dân tộc ta. Đó thật sự là những áng hùng văn: Nam quốc sơn hà  (1076) của Lý Thường Kiệt; Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi; Tuyên ngôn độc lập (1945) của Hồ Chí Minh.

 

1. Bài thơ “thần”Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Bản tuyên ngôn bằng thơ này ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Năm 1076, 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy tràn sang xâm chiếm nước ta. Lý Thường Kiệt là tổng chỉ huy quân ta đã kiên cường chống lại đội quân xâm lược đến từ phương Bắc. Ông cho lập phòng tuyến sông Như Nguyệt (còn gọi là sông Cầu) để chặn giặc. Sau đó, cho quân vây đánh chúng ở vùng biển Quảng Ninh. Nhiều trận quyết chiến đã xảy ra, do chênh lệch về lực lượng, quân Tống có thời điểm đã chọc thủng được phòng tuyến sông Như Nguyệt. Trước tình thế khó khăn, nhằm khích lệ tinh thần của binh sỹ và tỏ rõ chí khí của ta, Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ “thần”:

 

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

(Sông núi nước Nam vua Nam

Rành rành định phận tại sách trời.

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)

 

Nếu như trong hai câu đầu, tác giả khẳng định dứt khoát về chủ quyền dân tộc như là một chân lý thiêng liêng, bất di bất dịch thì hai câu sau là lời quyết chiến, quyết thắng kẻ xâm lược.

 

Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình. 
 

Trong Namquốc sơn hà Lý Thường Kiệt đã thể hiện rất rõ lòng tự tin, tự hào dân tộc. Điều này được thể hiện qua âm hưởng hào sảng và việc tác giả sử dụng từ “Đế” trong nguyên tác. Từ thời Tần Thủy Hoàng, các hoàng đế phương bắc tự cho mình là chủ thiên hạ, được trời giao cho sứ mệnh cai quản toàn thiên hạ. Các nước khác chỉ là chư hầu, người đứng đầu chỉ được xưng Vương. Lý Thường Kiệt đã không thừa nhận trật tự áp đặt đó, mà khảng khái chỉ ra rằng cũng có một hoàng đế phương Nam sánh ngang hàng với hoàng đế phương Bắc. Như vậy, với tầm vóc của một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, Nam quốc sơn hà vừa khẳng định chủ quyền lãnh thổ vừa thể hiện niềm tin tất thắng dựa vào chân lý và chính nghĩa. Đó cũng chính là sự thăng hoa của tâm hồn và ý chí dân tộc được hun đúc nên từ lịch sử của những cuộc chiến đấu chống xâm lăng.

 

2. Bình Ngô đại cáo được Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428. Tác giả đã thay lời Lê Lợi tuyên cáo với muôn dân về việc kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, giành lại độc lập cho nước Đại Việt. Nếu như trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt khẳng định chủ quyền của dân tộc bằng một niềm tin nhuốm màu huyền thoại (Định phận tại sách trời), thì hơn 3 thế kỷ sau Nguyễn Trãi đã chứng tỏ điều đó bằng những luận cứ khoa học và sự thật lịch sử đầy tính thuyết phục:

 

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

 

Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh những điều chứng tỏ quyền độc lập, tự chủ của dân tộc: Nước ta đã có một nền văn hiến lâu đời, có bờ cõi riêng, có phong tục riêng, có các triều đại sánh ngang với phương Bắc. Từ Bình Ngô đại cáo có thể thấy được toàn cảnh cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược vô cùng gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng của nhân dân ta. Tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất ấy dựa trên nền tảng và thế mạnh của chính nghĩa:

 

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo

 

Bình Ngô đại cáo cho đến nay vẫn được xem là áng “thiên cổ hùng văn” bởi sự kết hợp, hoà quyện nhuần nhuyễn giữa tư duy chính trị sắc bén với sự thăng hoa của nghệ thuật thể hiện.

 

3- Ngày 19 tháng 8 năm 1945 cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công. Chính quyền thuộc về tay nhân dân. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước đông đảo quốc dân đồng bào khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuyên ngôn độc lập vừa là văn kiện chính trị quan trọng của dân tộc, vừa là tác phẩm chính luận có giá trị lớn.

 

Ý kiến của bạn về vấn đề này xin gửi đếnDiễn đàn Dân tríqua địa chỉ email: thaolam@dantri.com.vn

Theo Trần Dân Tiên thì đó là “kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”. Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định quyền độc lập của dân tộc dựa trên công lý về quyền con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo viện dẫn lời của hai bản tuyên ngôn của hai nước lớn vốn có truyền thống dân chủ và bình đẳng, nhưng lúc đó những người cầm quyền hai nước này đang đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản và lý tưởng tốt đẹp của cha ông mình, là Bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền năm 1791 của Pháp.

 

Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 đã ghi rõ: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ có những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn của Pháp cũng nhấn mạnh: ”Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó thực sự là “những lẽ phải không ai chối cãi được”.

 

Điểm sáng tạo đồng thời là tư tưởng cốt lõi trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là việc khẳng định quyền con người và quyền độc lập dân tộc không thể tách rời nhau. “Nước mất nhà tan”, có độc lập dân tộc mới có quyền con người. Tư tưởng đó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

 

Tuyên ngôn độc lập ca ngợi tinh thần đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam để giành độc lập, giành lấy quyền sống tự do và bình đẳng với tinh thần kiên cường, gan góc đứng về phía Đồng minh chống lại phát xít Nhật. Chính vì vậy mà “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tinh mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

 

Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp bút và đọc tại quảng trường Ba Đình lịch sử là một tác phẩm chính luận đặc sắc. Sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm được thể hiện chủ yếu ở cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn đầy cảm xúc. Đó cũng là áng văn tâm huyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hội tụ đầy đủ tư tưởng cao đẹp cũng như tình cảm sâu nặng của Người đối với đất nước, đối với nhân dân, đồng thời cũng là kết tinh khát vọng cháy bỏng về độc lập tự do của dân tộc ta.

 

Ngày nay, đất nước đã sang trang, với thế và lực mới, chúng ta đang từng bước hội nhập ngày càng sâu rộng hơn với thế giới . 66 năm đã trôi qua, một mùa thu nữa lại về gợi nhớ đến những ngày thu lịch sử năm nào. Âm hưởng của bản tuyên ngôn lịch sử lại vang ngân khiến cho lòng người thêm náo nức.

Theo: Dan tri

Tin cùng chuyên mục