Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được Hồ Chí Minh quan tâm và chỉ đạo thực hiện ngay từ khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền sau thắng lợi của Cách mạng Tháng năm 1945. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm tới vấn đề này.

NHÓM GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG

Một là, phải nhận thức rõ tầm quan trọng, vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục chính trị, tư tưởng.

Tính tốt hay xấu của con người phần nhiều là do giáo dục mà nên. Giáo dục chính trị, tư tưởng có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt; là “việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tư tưởng”(1). Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta mạnh vì tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí. Trước hết là tư tưởng, “lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc gì”(2). Tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất, và khi đã thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi.

Bản thân trong mỗi con người chúng ta hoặc nhiều hoặc ít không tránh khỏi có cái ác. Cho nên, cùng với tự giác cố gắng học tập và cải tạo thì sự giáo dục chính trị, tư tưởng của Đảng là rất quan trọng và cần thiết, để cái ác ngày càng bớt, cái thiện ngày càng tăng. Mặt khác, cách mạng là một nghề. Làm nghề gì cũng phải học. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nếu không giáo dục cho đảng viên làm cách mạng mà cứ yêu cầu họ làm cách mạng thì họ không làm tròn được nhiệm vụ”(3).

Hai là, nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên”(4). Đảng phải giáo dục cán bộ của mình hiểu rõ “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(5).

Hiện nay, để đẩy mạnh học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trước hết phải hiểu thấu bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó nhận thức rõ, sâu sắc giá trị trường tồn tư tưởng của Người.Một trong những giá trị căn cốt trong di sản Hồ Chí Minh là giá trị dân, vai trò lãnh đạo của Đảng và mối quan hệ giữa lãnh đạo và nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng không phải chỉ cần con số cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng viên. Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới phải hiểu rằng: Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân, Bác nhấn mạnh: Làm đày tớ nhân dân chứ không phải làm “quan” nhân dân. Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt”(6).

Đó là nhiệm vụ, đạo đức của người đảng viên. Trước đây, hiện nay và sau này đều như vậy. Trên cơ sở đó mà giáo dục nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên hiện nay như thực hiện mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nêu cao trách nhiệm phụng sự và đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, trước hết; thực hành chí công vô tư, chống chủ nghĩa cá nhân.

Ba là, giáo dục cho cán bộ, đảng viên thấy rõ nguy cơ, tác hại của tham nhũng, tiêu cực. Theo Hồ Chí Minh, tham ô, lãng phí có tội với Tổ quốc với đồng bào; là kẻ thù của nhân dân. Người chỉ rõ: “Vết tích xấu xa và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là trái với đạo đức cách mạng; là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra nhiều cái xấu, thiên hình vạn trạng. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân(7).

Đại hội XIII chỉ rõ: “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”(8). Cán bộ, đảng viên phải hiểu rằng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là tha hóa về quyền lực, về văn hóa, làm giảm, mất lòng tin của nhân dân. Mà mất lòng tin là mất tất cả. Văn hóa lâm nguy còn đáng sợ hơn Tổ quốc lâm nguy. Văn hóa mất là dân tộc mất. Văn hóa còn thì dân tộc còn.

NHÓM GIẢI PHÁP VỀ XÂY DỰNG THỂ CHẾ, CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH

Một là, xây dựng, hoàn thiện và đưa chính sách, quy định, văn bản quy phạm pháp luật vào cuộc sống. Lúc sinh thời, Hồ Chủ tịch rất quan tâm và thực hiện nghiêm việc này. Ngày 23/11/1945, Người ký Sắc lệnh 64-SL về việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và một Tòa án đặc biệt”(9) có nhiệm vụ giám sát và xét xử các sai phạm của các nhân viên từ trong các Uỷ ban nhân dân các cấp đến các bộ. Ngày 26-01-1946, trong Quốc lệnh 10 điểm thưởng và 10 điểm phạt, trong đó các tội “phản quốc”, “hại dân”, “trộm cắp” sẽ bị xử tử”((10). Trước đó, ngày 21/1/1946, khi trả lời các nhà báo nước ngoài, sau khi khẳng định “nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam(11), Người nói: “Đảng viên của Đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ tham ô và những kẻ phản quốc ra ngoài”(12). Tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới, Người khẳng định “Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết”(13). Ngày 27/11/1946, Bác Hồ ký Sắc lệnh 223 ấn định hình phạt đối với tội đưa và nhận hối lộ, biển thủ công quỹ, tài sản công cộng. Riêng tội đưa và nhận hối lộ, sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ.

Từ thực tiễn phong phú của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian qua, người đứng đầu Đảng ta nêu lên nhiều nội dung liên quan tới thể chế, chính sách để bảo đảm “bốn không”: “Phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể” tham nhũng, tiêu cực; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám” tham nhũng, tiêu cực; xây dựng văn hóa liêm chính để “không muốn” tham nhũng, tiêu cực và một cơ chế bảo đảm để “không cần” tham nhũng, tiêu cực”(14).

Hai làxử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũngtiêu cực. Trong lãnh đạo Hồ Chí Minh chỉ bảo sửa chữa sai lầm cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo, song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Nếu không xử phạt thì mất cả kỷ luật, sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Hoàn toàn không xử phạt là không đúng. “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(15).

Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đạị hội XIII và Tổng Bí thư Đảng ta nhấn mạnh kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với quyết tâm chính trị cao, hành động mạnh mẽ, triệt để, hiệu quả với tinh thần “không có vùng cấm, vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai”(16).

Ba là, kiểm soát quyền lực. Hồ Chí Minh nhắc nhở muốn chống các bệnh, muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không, ai ra sức làm, ai làm qua chuyện thì phải kiểm soát một cách hệ thống, thường xuyên từ trên xuống và từ dưới lên, nhưng dưới lên - tức quần chúng kiểm soát sự sai lầm của lãnh đạo - là cách tốt nhất. Người viết: “Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không”(17). Đảng phải “luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”(18).

Nét đặc sắc về kiểm soát quyền lực trong di sản Hồ Chí Minh là xây dựng và thực hành cơ chế dân chủ, nhân dân tham gia giám sát công việc của Đảng và Chính phủ. Người chỉ rõ chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ, vì đồng bào có quyền đòi hỏi cán bộ làm tròn nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao cho, có quyền chỉ trích cán bộ nào không làm tròn nhiệm vụ đó. “Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Cho nên phong trào chống tham ô, lãng phí, quan lieu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”(19).

Xuyên suốt, nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vai trò, sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh chống sự hư hỏng, hủ bại của cán bộ: “Phải động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”(20).

Theo Tổng Bí thư, quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; phải “nhốt” quyền lực vào “lồng” cơ chế với cách hiểu quyền lực phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; ai lạm dụng, lợi dụng quyền lực để trục lợi đều phải được truy cứu trách nhiệm. Đồng thời, nhiều lần người đứng đầu Đảng ta nhắc lại lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng ta là một Đảng cầm quyền, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng phải dựa vào dân, lắng nghe dân, gắn bó máu thịt với nhân dân; việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm và làm cho bằng được; ngược lại, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Ông nhấn mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực phải cổ vũ, động viên sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, huy động sức mạnh của toàn dân.

NHÓM GIẢI PHÁP VỀ TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN CỦA MỖI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Một là, phải nhận thức rõ vai trò quyết định của con người. Theo Hồ Chí Minh, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”(21). Tư tưởng Hồ Chí Minh, nói ngắn gọn, đúc kết là do con người và vì con người.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng viết: “Cuối cùng, xét đến ngọn ngành mọi sự trên đời này là vấn đề con người, do con người, vì con người mà ra”(22). Nhận thức như vậy để thấy mối liên hệ và tính đồng bộ của các giải pháp, nhưng xét đến cùng, đúc kết ngắn gọn thì đó là hệ giải pháp “hai chân”: cơ chế và con người, nhưng con người tốt, cán bộ tốt đóng vai trò quyết định.

Hai là, mỗi cán bộ, đàng viên phải biết vượt lên chính mình, chống tha hóa quyền lực. Tham nhũng là hành vi của người có quyền, lợi dụng quyền đó để trục lợi riêng. Nói cách khác, tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực theo nghĩa có quyền mà “nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”(23). Thói thường “khi nắm được chút quyền hành trong tay vẫn hay lạm dụng”(24). Có quyền mà không có đạo đức là quyền lực bị tha hóa, và phải tập trung “chống tha hóa quyền lực”(25) như Đảng ta nêu lên trong Đại hội XIII.

Người đảng viên phải đấu tranh chống cái xấu để cải tạo xã hội, cải tạo thế giới và tự cải tạo mình, để luôn tiến bộ, nâng cao tư cách của người cách mạng của một đảng chân chính cách mạng. Việc tự cải tạo bao gồm sự rèn luyện trong đấu tranh thực tế và sự tu dưỡng trong tư tưởng, về mọi mặt, cả trong khó khăn gian khổ, trong lúc thất bại, cả trong lúc thuận lợi, thành công. Rèn luyện và tu dưỡng phải luôn đi đôi với nhau. Chống tha hóa quyền lực phải thật sự thấm nhuần và thực hành đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh viết, Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.

Trong đổi mới, Đảng ta và Tổng Bí thư khi bàn đến “bảo đảm quyền lực được vận hành đúng đắn, không bị “tha hóa” thường nhấn mạnh việc hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình, bảo đảm công dân được quyền tiếp cận thông tin theo quy định của pháp luật. Phát huy vai trò giám sát thực thi quyền lực bằng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; thanh tra, kiểm toán của Nhà nước, giám sát của các cơ quan dân cử. Kiểm soát quyền lực, thực hành liêm chính, chống tham nhũng phải được tiến hành có hiệu quả trong các cơ quan làm công tác phòng, chống tham nhũng.

Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người lãnh đạo, đứng đấu cấp ủy, chính quyền phải tự phê bình, nêu gương, tự nâng cao mình, “tiên trách kỷ”. Bàn về tư cách của người cách mạng, Hồ Chí Minh thường đặt “đối với tự mình” lên hàng đầu. Một lẽ tự nhiên là “tự mình không đánh thắng được khuyết điểm của mình mà muốn đánh thắng kẻ địch, tự mình không cải tạo được mình mà muốn cải tạo xã hội, thì thật là vô lý”(26). Muốn đánh thắng kẻ thù bên ngoài, kẻ thù trên thế giới, thì trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình. Hồ Chí Minh viết: “Muốn xây dựng xã hội trong sạch mà tự mình không kỳ rửa để không tham ô, lãng phí, thì không làm được. Tự mình còn bẩn thì xây dựng xã hội trong sạch thế nào được. Vì vậy phải gây một phong trào trong sạch. Muốn trong sạch thì phải gây một phong trào chống tham ô, lãng phí. Pháp luật không trị hết được. Tự mình phải gây ra cái pháp luật để trị mình”(27).

Chống tham nhũng, tiêu cực, bất liêm, vấn đề không phải là nói miệng, hô khẩu hiệu, tuyên truyền suông mà là thực hành; nói phải đi đôi với làm, gương mẫu thực hiện.. Điều quan trọng là mỗi cán bộ, đảng viên phải tự mình vun bồi đạo đức như chăm bón cho gốc của cây.

Nói đến “tự mình” tức là Hồ Chí Minh bàn đến một khía cạnh căn cốt của con người đảng viên cộng sản là danh dự, lương tâm, tư cách làm người, nhân tính, thể diện. Chỉ ra tham ô, lãng phí là có tội với nhân dân và Tổ quốc, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tự thấy đó là tội lỗi đối với nhân dân, với Tổ quốc; phải biết hổ thẹn với chính bản thân mình .

Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong các văn kiện của Đảng và phát biểu của Tổng Bí thư đều nhấn mạnh trách nhiệm người được giao chức vụ, quyền hạn phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, thường xuyên tự soi, tự sửa. Mọi việc đều do con người, nhưng trong mọi hạng người thì cán bộ là gốc của mọi công việc; mọi sự thành hay bại đều do cán bộ tốt hay kém; vấn đề cán bộ quyết định mọi việc. Người đứng đầu Đảng ta nhấn mạnh công tác cán bộ là “then chốt” của toàn bộ công tác xây dựng Đảng.

Qua thực tế hàng loạt cán bộ cao cấp, sĩ quan cấp tướng, tá bị khởi tố trong các vụ án vừa qua, lý giải mối quan hệ giữa cơ chế và con người, Tổng Bí thư đặt ra hàng loạt câu hỏi: “Tại ai, tại cái gì? Tại cơ chế hay tại mình không chịu tu dưỡng, rèn luyện?”. Và ông kết luận: “Đây là bài học rất đau xót, cho nên mọi cán bộ, đảng viên phải tự soi, tự sửa, giữ gìn phẩm chất đạo đức, đừng vướng vào những chuyện tiêu cực, bất luận hoàn cảnh nào cũng không động lòng tham, không ham hố vật chất, quyền lực; danh dự mới là điều thiêng liêng cao quý nhất, tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu”(28).

Phân tích của Tổng Bí thư cho ta hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa con người và cơ chế. Muốn chống tham nhũng, tiêu cực thì phải bằng tính khoa học của cơ chế và bộ máy, nhưng cơ chế, thể chế, chính sách, bộ máy lại do con người làm ra. Con người xấu có thể cài cắm lợi ích nhóm trong quá trình làm chính sách, pháp luật. Bộ máy, cơ chế tốt mà con người xấu cố tình xuyên tạc, phá hoại thì không cơ chế, bộ máy nào phát huy nổi hiệu lực, thậm chí thành công cụ cho cái ác. Hai phạm trù “cơ chế” và “con người” quan trọng ngang nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau, nhưng quyết định vẫn là con người. Thời Bác Hồ, cơ chế, bộ máy không “đồ sộ” như hiện nay nhưng đánh bại được sự tha hóa là nhờ con người. Đây không chỉ là giải pháp về con người nói chung, mà còn là bài học quý giá về vấn đề gốc, then chốt là công tác cán bộ.

Ba nhóm giải pháp nêu trên luôn vận hành trên cái trục “xây” đi đôi với “chống”: “chống” triệt để bảo đảm cho công việc “xây” thành công, “xây” phát triển thì cái gì cần “chống” sẽ được xóa bỏ tận gốc; “xây” là nhiệm vụ chủ yếu, lâu dài. Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn xây dựng một xã hội mới và tốt đẹp, thì cần phải tiêu diệt những thói hư, tật xấu của xã hội cũ còn sót lại. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cần phải bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác phải gắn thưởng với phạt. Khen thưởng và kỷ luật đúng đều mang lại động lực trong cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực. Những quan điểm nêu trên được Đảng ta khẳng định trong các nghị quyết của Đảng: Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài: “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách… Khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích; xử lý nghiêm minh những tập thể, cá nhân vi phạm. Đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân gắn liền với chú trọng xây dựng văn hóa Đảng, văn hóa liêm chính, văn hóa công bộc, văn hóa doanh nhân, doanh nghiệp.

Các giải pháp nêu trên chưa phải là tất cả nhưng có ý nghĩa đột phá. Trong đó, thể chế, công tác cán bộ, tu dưỡng đạo đức, kiểm soát quyền lực, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là ngăn chặn từ gốc hành vi tham nhũng, tiêu cực. Chúng ta kiên trì, kiên quyết, quyết tâm thực hiện chắc chắn sẽ đem lại những kết quả mới, cao hơn trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới.

Theo Tạp chí Tuyên Giáo

Tin cùng chuyên mục